Tam Sinh Tam Thế - Thập Lý Đào Hoa Chương 11: Độ kiếp cũng cần kỹ thuật

Mấy ngày sau đã là ngày mùng một tháng sáu.

Sổ số mệnh của Ti Mệnh Tinh Quân viết không sai, hoàng đế quả nhiên dẫn theo văn võ bá quan cùng các phi tần chơi thuyền trên sông Sấu Ngọc. Từ khi ta vào hoàng cung đến nay, vì không được hoàng đế coi trọng, tuy danh nghĩa là sư phụ của thái tử nhưng chưa từng được phong phẩm trật nào. Nhưng mấy tên quan nhỏ làm việc ở bộ Lễ cũng có con mắt, biết được ta là cao nhân, xếp ta vào hàng bách quan, trên chiếc thuyền rồng chơi sông đó dồn lại mấy viên quan hàng bát phẩm, cũng coi như là có chỗ. Nhưng vị trí này chỉ có thể nhìn thấy gáy của hoàng đế, một cái gáy khác cách hoàng đế khoảng ba trượng, nhang nhác giống Trần quý nhân.

Mão Nhật Tinh Quân cũng rất sĩ diện, trong ngày mà tiểu đệ Nguyên Trinh cùng Đông Hoa Đế Quân song song chịu kiếp nạn, y chiếu rọi gay gắt trên đầu người ta. Giữa bầu không dăm đám mây trôi bồng bềnh, giống như đám hơi nóng sắp tản đi, thật là uể oải.

Sấu Ngọc không phải là con sông rộng, mà thuyền rồng của hoàng đế thì lớn, chiếm đến nửa mặt sông.

Hai bên bờ sông dân chúng chen chúc đông nghịt người, có lẽ trời vừa tang tảng sáng họ đã đến bờ sông để xí vị trí đẹp. Nhưng khúc sông mà hoàng đế du ngoạn này cũng chẳng dài, dân chúng kinh thành thì đông, có rất nhiều người không có chỗ trên mặt đất liền trèo cả lên cây hoặc lên nhà dân gần đó để nhìn.

Đám phu chèo thuyền vất vả vô cùng, vì trên đê bao bờ sông dân chen như nêm, nên phải chèo thuyền ra giữa dòng, không lệch về bờ trái một thước cũng không lệch về bờ phải một thước, để tỏ rõ ơn mưa móc của hoàng đế tưới tắm bốn bể, tất cả như nhau, không thiên vị dân chúng bên bờ trái, cũng chẳng thiên tư bá tính bên bờ phải. Vì đây là hành động cực kỳ tinh tế, có câu rằng chậm mà kỹ, thế nên thuyền cứ từ từ trôi đi.

Dưới ánh nắng mặt trời, người trên thuyền đều bị hun đến mức hai chân run cầm cập.

Buổi trưa đã dần tới. Ta nhét hai chiếc lá vàng vào tay thằng nhóc hoạn quan đang bận rộn sau thuyền, nhờ y đi mời thái tử. Nhóc hoạn quan này chân tay lanh lợi, ta vừa mới nhắm mắt nghỉ một lát, Nguyên Trinh đã vui vẻ chạy tới.

Hôm nay y bận một chiếc áo bào gấm màu xanh da trời thêu hoa, thiếu niên anh tuấn, nhìn thấy ta, cười tươi hớn hở hỏi: “Sư phụ kêu Nguyên Trinh tới không biết có chuyện quan trọng gì không?”.

Tuy y có cái tính hay hỏi rành rẽ ngọn nguồn, nhưng ta đã sớm định liệu, trước tiên im lặng một lát, làm ra vẻ thần bí, vừa túm tay áo vừa than: “Ngực vi sư vừa nãy xuất hiện một luồng đạo quang, rất nhiều huyền lý mà bình thường không hiểu giờ đã rành rẽ, vi sư nhớ tới con luôn một lòng hướng tới đạo pháp, nay đã đắc đạo, muốn truyền lại cho con, chẳng hay con có muốn nghe không?”.

Tiểu đệ Nguyên Trinh lập tức chắp tay, cúi đầu lắng nghe.

Ta nghiêm trang hắng giọng.

Lúc học nghệ ở Côn Luân, ta tuy không có tài năng gì, phàm là bài giảng có liên quan đến chữ “pháp” như đạo pháp, Phật pháp ta đều học rất qua loa. Nhưng cho dù những giờ giảng năm đó của Mặc Uyên ta đều gà gật, thì trong lúc gà gật cũng nhận được sự hun đúc suốt mấy trăm năm, giảng giải về đạo pháp cho một người phàm trong một canh giờ thì cũng không thành vấn đề.

Ta vừa giảng đạo cho Nguyên Trinh, vừa đợi mỹ nhân định mệnh trong cuốn sổ số mệnh của Ti Mệnh Tinh Quân, thấy trời sắp quá trưa, lòng cũng hơi sốt ruột.

Giảng đến đoạn cuối, Nguyên Trinh muốn nói nhưng lại ngừng lúc lâu, cuối cùng mới chen lời: “Sư phụ, ban nãy đoạn song tu trong phòng, dưỡng khí di thần người đã giảng cả thảy bốn lần rồi ạ”. Ta hận sắt không thành thép được (20), bèn nói: “Vi sư giảng cả thảy bốn lần là có đạo lý của bốn lần. Con số bốn này tượng trưng cho cái gì, con nên ngẫm kỹ; đoạn đạo pháp nói cái gì, con cũng nên ngẫm kỹ; tại sao vi sư lại chọn đoạn này để giảng bốn lần, con cũng nên ngẫm kỹ; điều cốt yếu nhất của việc học đạo chính là chữ “ngẫm” này, giống như con không hiểu được khổ tâm của vi sư lúc này đây, để tu được đạo thực không dễ đâu”.

Nguyên Trinh xấu hổ cúi gằm mặt.

Vì bị y ngắt lời như thế, ta phải nghĩ một lúc mới nhớ ra mình đang giảng cho y đoạn nào mà tới tận bốn lần? Hầy, tạm thời mặc kệ y, tiếp tục nói về song tu trong phòng, dưỡng khí di thần nào.

Ta giảng khô cả họng, trà đã rót đầy hai bình lớn, mỹ nhân trong cuốn sổ số mệnh của Ti Mệnh Tinh Quân cuối cùng cũng đã xuất hiện. Thực ra ta chưa nhìn thấy mỹ nhân ấy, vì chỗ ta ngồi là cuối thuyền, đương nhiên nhìn ra xung quanh toàn là các loại gáy của người ta mà thôi, sớm biết mỹ nhân đã xuất hiện, là vì ta nhìn thấy đại bàng cánh vàng luôn bên cạnh Phật Tổ ở Tây Thiên – do Ti Mệnh Tinh Quân không tiếc công sức mượn về – đang quẩn quanh ở chân trời.

Ta sống đã nhiều năm thế này, cũng chưa bao giờ chứng kiến hoàng đế nhảy xuống nước cứu mỹ nhân, khoảnh khắc nữa sẽ được đã mắt, nhất thời máu nóng bừng bừng. Nhưng vì còn phải cầm chân tiểu đệ Nguyên Trinh, nên chí ít cũng phải làm bộ trấn tĩnh, khổ sở nhẫn nhịn.

Tiếng hô hoán của dân chúng ven bờ cũng dần ngớt đi, toàn thuyền lặng phắc, đại bàng cánh vàng vẫn còn là một chấm nhỏ nơi chân trời, hẳn sự im lặng đáng kinh ngạc kia không phải do nó gây nên.

Có lẽ đám người im bặt đó đang mê mẩn trước sự xuất hiện của mỹ nhân.

Tiểu đệ Nguyên Trinh còn đang mê đắm trong cảnh giới của đạo pháp bác đại tinh thâm, không thể tự thức tỉnh, chưa ý thức được cảnh tượng này, ta rất vui mừng, vừa tiếp tục hoằng dương đạo pháp với y, vừa thầm liếc con đại bàng cánh vàng bay đến càng lúc càng gần kia.

Con đại bàng cánh vàng bên cạnh Phật Tổ này vô cùng uy nghiêm, mỗi lần đập cánh bay được ba ngàn dặm, lần này lại sắm vai một con chim thường, nếu bay mạnh mẽ quá thì không hợp, vì thế nó co đôi cánh lại, bay chầm chậm trên bầu trời, chầm chậm lướt qua, hẳn chưa bao giờ nó phải chịu gò bó thế này, nó rủ đầu, dáng vẻ rất tủi hổ.

Ta nhìn thấy đại bàng cánh vàng khổ sở đến giữa khoảng không trên sông Sấu Ngọc, đầu tiên nó khẽ khàng đập cánh lượn một vòng, sau lại khẽ khàng vươn đôi cánh rộng ra một chút, tiếp tục khẽ khàng chúi đầu xuống, lại khẽ khàng bay vọt lên trên. Ta có cảm giác, cả đời này chưa bao giờ nó tao nhã, thoát tục đến như thế.

Nhưng những động tác vừa khiêm nhượng vừa nghiêm trang của nó lại chẳng ra làm sao trong mắt người trần mắt thịt, thế nên họ đều kinh sợ, hò hét đủ kiểu. Một ông lão bên cạnh ta run lên cầm cập, tay chỉ trỏ, miệng lào thào nói: “Trên đời sao lại có con đại bàng to đến thế, con đại bàng này sao mà hung dữ, bay sao mà nhanh thế!”.

Nguyên Trinh vẫn đang đắm chìm trong thế giới đạo học vi diệu, y đang khổ sở suy tư. Ta băn khoăn mỹ nhân kia đáng nhẽ đã phải rơi xuống nước rồi, bèn bình tĩnh chờ Tang Tịch ở đầu thuyền đẩy hoàng đế xuống “tõm” một tiếng.

Đầu thuyền quả nhiên vang lên một tiếng “tõm”, ta sung sướng trong lòng gật gật đầu, rất tốt, Tang Tịch đã đẩy Đông Hoa xuống nước rồi.

Đầu ta còn chưa gật xong thì bên kia đã nghe thấy tiếng Trần quý nhân kêu lên thất thanh: “Bệ, bệ hạ không biết bơi…” rồi tiếp theo lại một tiếng “tõm” nữa vang lên. Tiếp theo rất nhiều tiếng “tõm” khác vang lên.

Ta ngây người ra.

Mẹ ơi.

Nghìn tính vạn tính nhưng lại chẳng tính được kiếp này đầu thai Đông Hoa là một con vịt cạn, làm sao bảo hắn cứu mỹ nhân được đây? Ta hớt hơ hớt hải chạy đến đầu thuyền, Nguyên Trinh hẳn đã bị tiếng thét lúc nãy của Trần quý nhân làm cho sực tỉnh, vội vàng kích động chạy lên trước ta. Tuy đã vỡ lở như thế này, nhưng bây giờ cũng không thể để Nguyên Trinh rơi xuống nước. Cho dù có liên lụy đến số mệnh của Đông Hoa thì cũng phải thay đổi, vẫn còn tốt hơn là cả hai số mệnh đều không thể thay đổi. Bản thượng thần trong lúc nhốn nháo vẫn giữ bình tĩnh, trong chớp mắt đã đưa ra quyết sách sáng suốt này, nên sống chết giữ chặt tay Nguyên Trinh.

Nguyên Trinh vừa chạy vừa nhìn ta một cái đầy hàm ý rồi lại tiếp tục chạy. Đã có thái tử mở đường, hai chúng ta chạy một mạch đến đầu thuyền, vượt qua ba tầng bảy lớp người, đứng ngay sau lan can ở đầu thuyền.

Từ lan can nhìn ra phía trước.

Đây đúng là một cảnh tượng kỳ lạ.

Khắp sông Sấu Ngọc quan lớn quan nhỏ lóp ngóp lặn ngụp hò hét, kẻ không biết bơi thì vừa sặc sụa vừa kêu cứu, kẻ biết bơi thì bơi qua bơi lại vừa bơi vừa hò hét gọi hoàng đế, gặp phải bạn đồng liêu tuy không biết bơi nhưng cũng nhảy xuống, bèn vừa kéo vừa bơi vừa tìm hoàng đế.

Nhưng vì người trên sông quá nhiều, cuộc tìm kiếm này vì thế mà trở nên thật vất vả.

Ta đứng trên mũi thuyền, cúi xuống nhìn cả quãng sông, nhìn rõ một chút thì thấy hoàng đế bệ hạ mà đám quan tìm kiếm trên sông Sấu Ngọc kia đã nằm trong vòng tay của Trần quý nhân nhỏ bé, đang được chật vật đưa lên thuyền rồng.

Chứng kiến cảnh tượng này, ta đoán rằng sau khi hoàng đế bị Tang Tịch thần không biết quỷ không hay đẩy xuống sông, Trần quý nhân hét lên một tiếng “Bệ hạ không biết bơi” đã thức tỉnh đám người đang say sưa, đám trung thần dưới trướng của hoàng đế để biểu thị lòng trung trinh liền vội vàng nhảy xuống nước cứu giá. Không ít kẻ tuy không biết bơi nhưng, bị ảnh hưởng tâm lý đám đông, cũng cắn răng vén áo nhảy xuống. Còn có một số thành phần lý trí, tuy không mù quáng a dua theo đám đông, nhưng nghĩ rằng người khác nhảy xuống mà ta không nhảy thì biết ăn nói ra sao, bèn bi phẫn mà nhảy theo. Thị vệ bên cạnh hoàng đế tất nhiên là biết bơi, vốn họ chỉ muốn cứu một mình hoàng đế, nhưng lại thấy mấy con vịt cạn nhảy xuống, huống hồ lại là vịt cạn rường cột nước nhà, nên không cứu cũng không được, vì thế đã mệt lại càng thêm mệt. Lúc này, Trần quý nhân đã đưa được hoàng đế lên thuyền, còn thị vệ của hoàng đế phải bận rộn cứu các vị rường cột quốc gia không biết bơi kia.

Nhốn nháo như thế, nên chẳng ai thèm đoái hoài tới mỹ nhân rơi xuống nước trong cuốn sổ số mệnh kia.

Nguyên Trinh chỉ chăm chăm lo cho phụ hoàng của y, đương nhiên cũng chẳng màng đến mỹ nhân rơi xuống nước kia, mấy lần muốn nhảy xuống cứu phụ hoàng y, may mà bị mấy lão đại thần bảy mươi, tám mươi tuổi chưa kịp nhảy xuống sông ngăn lại. Hoàng đế ốc còn không lo nổi mình ốc, làm gì có sức mà quan tâm tới mỹ nhân kia.

Vừa nãy ta nhìn thấy, mỹ nhân kia tự mình bơi vào bờ, vừa khóc vừa lủi thủi đi mất.

Hoàng đế bị ngâm nước tới mức nửa sống nửa chết.

Vì Trần quý nhân là phi tần duy nhất nhảy xuống sông sau hoàng đế, lại còn tự tay cứu hoàng đế lên, địa vị đương nhiên có khác với mọi người… Đám phi tần bị hoàng hậu – người biết đến toàn cục bảo đứng sau một bên khóc lóc thút thít, chỉ còn có Trần quý nhân là có thể bò rạp bên cạnh long thể của hoàng đế, khóc váng trời tối đất: “Bệ hạ – người tỉnh đi – người tỉnh đi – người không thể vứt bỏ thần thiếp như thế”.

Gào rồi lại ôm ngực nôn ra một bụm máu, gào thêm hai câu lại nôn thêm một bụm máu nữa.

Mấy thái y già dày dặn kinh nghiệm đi theo hoảng hốt chạy qua tách Trần quý nhân và hoàng đế ra, phân công rất chuyên nghiệp, mỗi người đều tự mở hòm thuốc của mình, hỏi han bắt mạch riêng cho hoàng đế rồi tới Trần quý nhân.

Chuyến du ngoạn này cuối cùng xôi hỏng bỏng không, thuyền rồng rốt cuộc có thể phát huy sở trường lướt trên sóng nước của nó, những viên quan chèo thuyền không cẩn thận giữ tốc độ lúc trước, sau mệnh lệnh của thái tử, họ đều hô vang giơ cao mái chèo, “soạt” một tiếng, thuyền rồng liền lao vút đi về phía hoàng cung.

Ta nán lại đuôi thuyền, vẫy tên nhóc hoạn quan ban nãy đi mời Nguyên Trinh cho ta, đòi một bình nước lọc. Kiếp số của Nguyên Trinh đã được hóa giải, nhưng lại không may liên lụy đến Đông Hoa và mỹ nhân rơi xuống nước bị bỏ qua kia. Đương nhiên ta biết Đông Hoa thân là chúa của các thần, bao chuyện phiền toái vụn vặt, có thể thu xếp thời giờ để xuống đầu thai một lần ở hạ giới không phải là dễ, lần này cơ duyên trải nghiệm tình kiếp của hắn lại bị ta hủy hoại, ta cũng cảm thấy có lỗi.

Lau hết mồ hôi, uống một ngụm nước, việc lần này của Nguyên Trinh, rốt cuộc bản thượng thần đã thực hiện không êm đẹp.

Tuy rằng đã thực hiện không êm đẹp, nhưng tốt xấu gì cũng đã làm xong.

Bấm tay nhẩm tính, ta đã ở dưới phàm trần suốt mấy ngày, phàm trần giờ đây đâu còn thú vị như năm nào. Ta định ngày mai sẽ đến đạo quán sau hoàng cung, từ biệt bà mẹ đạo cô của Nguyên Trinh, coi như là có trước có sau, rồi quay về Thanh Khâu. Nhưng bây giờ trên người ta không còn một chút pháp lực, làm thế nào để về được Thanh Khâu cũng là một vấn đề.

Trước đó Phượng Cửu có nói với ta, qua lễ sinh nhật của Vi Đà mùng một tháng sáu, đợi Đông Hoa gặp được người con gái mà hắn một lòng một dạ yêu thương, ấy là lúc nó nên đi. Lần này số mệnh của Đông Hoa tuy có bị thay đổi đôi chút, nhưng kết cục thì cũng không can hệ gì nhiều đến nó, còn chưa kể đến chuyện trong cơn nguy hiểm, nó dám bất chấp tính mạng để cứu Đông Hoa, ước nguyện báo ơn đã được thực hiện rồi. Ta ngẫm nghĩ một lát, sau khi mặt trời xuống núi ta sẽ đi tìm Phượng Cửu, ngày mai cùng nó quay về Thanh Khâu.

Ta về Tử Trúc viện đánh một giấc.

Khi đôi tay mềm mại của thị nữ lay ta tỉnh dậy thì trời cũng đã nhá nhem tối.

Thong thả ăn mấy miếng cơm, kêu thị nữ mang một chiếc đèn lồng tới, rồi cùng ta đi tới Hạm Đạm viện.

Ban ngày, người ta thật khó phân biệt đông tây nam bắc ở hoàng cung, về đêm, xung quanh đèn đuốc sáng trưng vàng vàng tối tối, ta đã vào hoàng cung gần hai tháng, nhưng đài nào, điện nào, đều rối như tơ vò. Thị nữ cầm đèn lồng rất tỏ tường đường đi lối lại, còn ta chỉ biết lặng lẽ theo sau, trong lòng không khỏi khâm phục nàng ta.

Đi qua một cái đình trong hoa viên, chẳng ngờ bị tiểu đệ Nguyên Trinh đột nhiên xuất hiện tóm được. Thị nữ cúi mình, chào “Thái tử điện hạ”. Hai tay Nguyên Trinh vẫn giữ chặt tay áo, im lặng gật đầu rồi quay sang nhìn ta, thì thào hỏi: “Nguyên Trinh có việc muốn bàn với sư phụ, chẳng hay sư phụ có thể qua đình kia với Nguyên Trinh không?”.

Đến lại gần nhìn, dáng vẻ của y dường như hơi bối rối, ngại ngùng, lòng ta thoáng run sợ, buổi chiều vì y phải đi thăm cha mình, ta không đi cùng y được, bộ dạng bây giờ của y, chẳng lẽ đã bị sợi chỉ hồng định mệnh quấn lấy mỹ nhân rơi xuống nước rồi sao? Nếu quả như vậy, cuốn sổ số mệnh của Ti Mệnh Tinh Quân quả là ghê gớm.

Nguyên Trinh dẫn ta đến cái đình đó rồi ngồi xuống. Gió từ mặt hồ thổi tới hơi lành lạnh.

Ta nhìn dáng vẻ tình xuân phơi phới của y, không nói gì mà lẳng lặng ngồi xuống ghế đá.

Y cũng ngô nghê, tự vui vẻ hồi lâu, mãi sau mới rón rén lấy từ trong tay áo ra một vật gì đó, đưa đến trước mặt ta tựa như dâng bảo vật: “Sư phụ, người nhìn xem, nó có đáng yêu hay không?”.

Ta đủng đỉnh liếc nhìn vào bàn tay y một cái, rồi thầm than một tiếng trong lòng, Nguyên Trinh ơi là Nguyên Trinh, đứa trẻ như ngươi sao lại khiến người ta lo lắng đến thế, ngươi có biết trong tay người đang giữ thứ gì không?

Quả nhiên tiểu đệ Nguyên Trinh không biết trong tay mình là thứ gì, nhíu mày căng thẳng hỏi: “Trưa nay khi thuyền chuẩn bị cập bờ, vì phải quản bách quan nên Nguyên Trinh rớt lại sau cùng. Bé cưng này rơi từ trên trời rơi xuống, a, khi ấy nó không nhỏ như thế này, đôi cánh dang ra to bằng một nửa gian nhà, cực kỳ oai nghiêm. Vừa nhìn thấy là sà đến người Nguyên Trinh, bé cưng rất biết thương xót người ta, sợ làm Nguyên Trinh bị thương, lập tức thu nhỏ lại như thế này, rồi sà vào lòng Nguyên Trinh”.

Bé cưng đang im thin thít rúc trong lòng bàn tay Nguyên Trinh – đại bàng cánh vàng đậu trước tòa sen của Phật Tổ Như Lai ở đất Phật Tây Thiên, nay thu nhỏ bằng con chim sẻ, tuy rằng nó chỉ nhỏ như con chim sẻ, nhưng toàn thân không bị mất đi màu vàng lấp lánh. Nó đang chúi đầu dưới quầng sáng vàng, dáng vẻ vô cùng ủ dột, sợ sệt, nghe thấy hai tiếng “bé cưng” là lại nhắm nghiền mắt, run lên bần bật. Nhìn kỹ lại, hai chân nó đang đeo một chiếc chuông. Chiếc chuông này là một vật báu, vốn được gọi là chuông khóa tiên, là thứ dùng để giam linh thú, linh cầm ở trên Thiên Đình. Chẳng trách đại bàng cánh vàng không thể khôi phục lại cơ thể, chỉ có thể biến thành miếng thịt nhỏ xíu nằm trên thớt, mặc cho người ta trêu đùa.

Lúc trưa, khi con đại bàng cánh vàng này từ trên trời bay xuống ta đã hơi lo sợ, nó co chân co cánh bay như vậy, khó mà tránh được bay ở lưng chừng sẽ bị chuột rút. Muốn làm cho điều ta lo lắng ứng nghiệm, thì nó mới ngoan ngoãn sà vào lòng Nguyên Trinh chăng?

Ta chăm chú nhìn chiếc chuông đeo trên chân của đại bàng cánh vàng, Nguyên Trinh bèn bước tới, nói: “Cái này là sư phụ trước cho con, năm con mười hai, mười ba tuổi, sau đạo quán có một con sư tử tinh khóc rống lên đòi làm vật cưỡi của con, sư phụ liền cho con để khống chế con sư tử tinh kia. Sau con sư tử tinh cái này bị một con sư tử tinh đực rủ đi mất, chiếc chuông từ đó không biết dùng vào việc gì, lần này vừa hay dùng cho bé cưng”.

Bé cưng lại run cầm cập.

Ta gật đầu “à” rồi lại “ừ”, thành thật khuyên y: “Con nên suy nghĩ cho kỹ, ngài, ừm, thứ trên tay con thực ra có chủ rồi, nếu con giấu nó đi, đến khi người chủ đó tìm thấy, e rằng sẽ rất khó xử”.

Y chau mày, gương mặt u oán, nói: “Cho nên Nguyên Trinh mới bàn bạc với sư phụ, sư phụ là cao nhân, có thể cùng Nguyên Trinh chăm nó được không? Bé cưng là linh thú, chủ nhân của nó đương nhiên cũng không phải phàm nhân, Nguyên Trinh chỉ là một người phàm, dương thọ có hạn, đợi đến khi Nguyên Trinh mệnh tận nơi chín suối, đương nhiên sẽ trả bé cưng cho người ấy”.

Ta nhìn bé cưng một cái, bé cưng lại cực lực lắc đầu. Nhưng lần này nó là một con chim, không thể hóa thành người như mọi khi, đầu vừa mới lắc thì toàn thân đã rung lên theo. Nguyên Trinh giơ nó cao ngang cổ ta, nói: “Sư phụ, người xem, bé cưng nghe con nói sẽ nuôi nó, cũng phấn chấn đây này”.

Bé cưng ngã xuống làm bộ rúc đầu đi ngủ.

Nguyên Trinh nhìn ta đầy tha thiết hy vọng, đầu ta nóng bừng, cảm thấy lời của y cũng có lý, lại nghĩ lần này y đã bị ta phá hỏng nhân duyên, phần đời từ nay về sau sẽ vô cùng vô vị, nuôi một con linh thú quý hiếm ở bên mình, ít nhiều cũng có thể giết thời gian; rồi lại nghĩ tới y đã gọi ta một tiếng sư phụ, thì cũng coi như là đệ tử của ta, lúc đầu đến một món quà nhân lúc mới nhận thầy ta cũng chẳng có cho hắn, thực sự cũng có chút chẳng ra sao. Lại cảm thấy, đi Tây Thiên nói với Phật tổ rằng, cho ta mượn con đại bàng cánh vàng một thời gian cũng không phải là chuyện lớn lắm.

Ta nghiêm trang gật đầu, nói: “Được”.

Bé cưng kêu “két” một tiếng.

Nguyên Trinh mừng rỡ cất bé cưng vào tay áo, nắm chặt tay ta nói: “Sư phụ, người đồng ý rồi, không phải Nguyên Trinh nằm mơ ư? Trước đây Nguyên Trinh còn không chắc rằng đây chỉ là sự si mê của Nguyên Trinh, chẳng ngờ sư phụ lại đồng ý với Nguyên Trinh…”.

Y còn chuẩn bị nói tiếp thì trên không vẳng tới một giọng nói trong mà rõ: “Hai người đang làm gì vậy?”.

Giọng nói này nghe rất quen.

Ta kinh ngạc nhìn lên không trung.

Dạ Hoa Quân hơn một tháng nay chưa gặp đang quay lưng về phía ánh trăng lạnh lẽo, khuôn mặt lạnh lùng, nhìn ta và tiểu đệ Nguyên Trinh, ánh mắt sáng rực. Sau lưng hắn có một vị thần tiên, mặc áo màu xanh ngọc, bờ môi hé cười, dung mạo dịu dàng.

Ở phàm trần hơn tháng rưỡi, ngoài Phượng Cửu trú trong Hạm Đạm viện, cả ngày gặp tới gặp lui cũng chỉ vài ba gương mặt, bây giờ nhìn thấy người quen, lại là người quen có thể giải phóng pháp lực đã bị phong kín của ta, ta không khỏi có chút kích động.

Những vở kịch mà ta xem trong lúc rảnh rỗi gần đây, đều là tri kỷ bạn tốt lâu ngày xa cách lúc trùng phùng, chắc chắn sẽ anh nắm tay tôi, tôi nắm tay anh thân thân mật mật, anh gọi một tiếng hiền huynh, tôi gọi một tiếng ngu đệ, lại cùng nhau nâng đôi chén rượu, tình nồng ý đượm, khiến ta cảm động khôn cùng.

Tuy ta và Dạ Hoa chia tay nhau chưa bao lâu, nhưng cũng có thể được coi là một phen tiểu biệt (21), giờ hắn lạnh lùng đứng giữa không trung, cũng chẳng buồn chào ta một tiếng hẳn hoi, ta cảm thấy cực kỳ khó chịu.

Cánh tay Nguyên Trinh nắm lấy tay ta cũng hơi run run. Ta nhìn động viên y một cái, nghiêm túc nói với hai vị thần tiên đang lơ lửng giữa bầu không: “Hai vị mau xuống đi, trăng tối gió cao, hai vị phất phơ bay lượn, gặp kẻ phàm trần không thể thưởng thức, dọa cho họ sợ thì không hay đâu”.

Những lời này ta nói rất “oai”, thần tiên áo màu xanh ngọc phía sau chắp tay, cưỡi mây xuống trước, Dạ Hoa lườm Nguyên Trinh một cái, rồi cũng xuống sau.

Nguyên Trinh rõ ràng là một kẻ phàm trần không thể thưởng thức, ta đồ rằng hôm nay y rất kinh hãi, đang định gọi thị nữ cầm đèn lồng đứng xa xa lại, bảo đưa y về nghỉ trước, thì nhìn qua, thị nữ đó đã ngã xuống đất, đèn lồng chỏng chơ bên cạnh, hầy, xem ra nàng ta đúng là không thể thưởng thức tư thế thần tiên của Dạ Hoa.

Cánh tay Nguyên Trinh càng lúc càng run tợn, ta thầm than một tiếng, đồ đệ đầu tiên của cuộc đời Bạch Thiển ta, sao lại vừa thấy thần tiên là chân nhũn ra, thật chẳng ra sao cả.

Ta cảm thấy mình nên đưa tay xoa đầu y một cách hiền hậu, để vỗ về đôi chút.

Tay còn chưa kịp nhấc lên, thì đã bị gương mặt đỏ bừng của y dọa cho một trận.

Lúc này, khuôn mặt Nguyên Trinh đương đỏ như trứng vịt muối, đôi con ngươi long lanh phát sáng nhìn ta chằm chằm: “Sư, sư phụ, con, con đã nhìn thấy thần tiên, con, con lần đầu tiên nhìn thấy thần tiên sống, thần tiên sống…”.

Ta im lặng rụt tay lại. Y vui vẻ bước hai bước tới trước mặt Dạ Hoa, cung kính chắp tay, nói: “Thần Hiên Viên (22) thời thượng cổ tu đức hưng binh, đặt ra ngũ khí, dạy trồng ngũ cốc, vỗ về vạn dân, đo đạc bốn phương, khiến phượng hoàng đến bay vờn trên cầu, lần này hai vị thần tiên giữa đêm tới đây, có phải vì phụ hoàng ta công đức hiển hách, đã được trên trời nghe thấu chăng?”.

Ta thầm thở dài hai tiếng, tiểu tử, không phải là công đức của lão hoàng đế nhà ngươi lan tới trời cao, mà là nợ tình giữa ngươi và lão hoàng đế nhà ngươi đã được trên trời nghe thấu.

Dạ Hoa nửa cười nửa không, dò xét Nguyên Trinh một hồi, mắt lại liếc xéo ta một cái: “Đã để thái tử phải thất vọng rồi, bản quân lần này hạ phàm là muốn tìm vợ, hoàn toàn là việc riêng”.

Nhìn ánh mắt hắn mà ta sởn da gà. Nguyên Trinh nhìn hắn, ta nhìn theo ánh mắt hắn sang phía ta, ôm đầu, nét mặt hết sức hoang mang.

Ta cười nịnh Nguyên Trinh: “Là tới tìm ta, tìm ta”.

Nguyên Trinh run lẩy bẩy như vịt con, hết sức kinh ngạc nhìn ta. Dạ Hoa nghiêng đầu, hân hoan ngắm nhìn mặt hồ đen như sơn bên cạnh tòa đình.

Ta thầm nhủ, cảm thấy duyên pháp với Nguyên Trinh đã hết, ngày mai ta sẽ rời đi, Dạ Hoa đến thật đúng lúc, hôm nay họ có duyên tiên hội ngộ, ta cũng nhân cơ hội này kiếm cớ, cáo biệt với Nguyên Trinh từ đây.

Lý do ta còn chưa nghĩ thấu đáo, vị thần tiên mặc áo xanh ngọc đứng bên im lặng nãy giờ đã rọi một luồng kim quang thẳng mặt Nguyên Trinh, Nguyên Trinh lập tức ngã nhào.

Thần tiên áo xanh cười tươi với ta: “Cô cô không cần lo lắng, tiểu thần chẳng qua chỉ xóa đi ký ức của điện hạ Nguyên Trinh về quân thượng và tiểu thần trong đêm nay mà thôi. Nhờ cô cô tài tình, số mệnh của điện hạ Nguyên Trinh đến nay đã vô cùng viên mãn, tiểu thần chỉ lo y vì gặp được hai vị thần tiên thực sự mà nảy sinh phiền não và nghiệp chướng. Huống hồ mệnh kiếp lần này của Đế Quân lại vì điện hạ Nguyên Trinh mà có chút thay đổi, chuyến này tiểu thần đến đây là muốn bổ cứu một chút, phải phiền cô cô dẫn đường, tiểu thần muốn tìm điện hạ Phượng Cửu nhờ giúp đỡ”.

Vị áo xanh này thực biết ăn nói, mệnh kiếp này của Đông Hoa bị tiểu đệ Nguyên Trinh làm liên lụy, chẳng phải là chỉ có chút thay đổi mà thôi.

Ta là một thần tiên rộng lượng, mấy câu trách móc của hắn kể ra cũng có lý, huống hồ hắn đã nói như vậy, dung mạo cũng rất hiền hòa, thì sẽ không thể nói gì Nguyên Trinh. Trái phải đều trách rồi, vậy thì cứ tiếp tục trách nữa đi.

Dạ Hoa bình thản nói với thần tiên áo xanh: “Ngài mời nàng ấy dẫn đường, thì có đi tới sáng mai, đi hết hoàng cung cũng chưa chắc đã đến được cung Phượng Cửu ở. Chẳng thà gọi một thổ địa lên hỏi cho xong”.

Vị thần tiên áo xanh nhìn ta nghi hoặc, rồi gọi thổ địa lên.

Ta cười khan hai tiếng.

Hôm nay Dạ Hoa rất khác thường, nói năng mờ ám, lại hơi gay gắt, e rằng hôm nay trên Thiên Đình đã gặp phải chuyện gì bực mình.

Vì ta đã độ hóa cho số mệnh của Nguyên Trinh xong, Dạ Hoa đương nhiên không thể tiếp tục phong bế pháp lực của ta. Vừa hay thần tiên áo xanh cũng gọi thổ địa lên rồi, ta bèn cùng ba người bọn họ đến Hạm Đạm viện, coi như cũng hưởng lợi.

Lúc chuẩn bị đi thấy Nguyên Trinh còn sõng xoài trên đất, đêm khuya gió lạnh, cơ thể của tiểu đệ Nguyên Trinh tuy không phải là yếu đuối nhưng cũng chẳng phải tráng kiện, ốm một trận thì sẽ rất khổ sở. Bản thượng thần vốn từ bi bác ái, thường không quen nhìn người ta chịu khổ, bèn nhờ thần tiên áo xanh kia làm phép đưa tiểu đệ Nguyên Trinh về tẩm điện nghỉ ngơi.

Dạ Hoa lạnh lùng lườm ta một cái.

Trên đường đi, ta ngẫm nghĩ mới hiểu, theo những lời vừa rồi của vị thần tiên áo xanh kia, có thể biết được y chính là Ti Mệnh Tinh Quân dưới trướng của Nam Cực Trường Sinh Đại Đế.

Dạ Hoa từng nói vị Tinh Quân này tính cách cổ quái, nhưng theo ta thấy, y rất hiền hòa.

Lần này hắn cùng với Ti Mệnh Tinh Quân đến đây để bổ cứu cho số mệnh của Đông Hoa, mấy câu kiếm ta chẳng qua chỉ là nói chơi thôi. Ta bản tính thật thà, thẳng ruột ngựa, nhìn thấy không khí lạnh lẽo trên đường đi, không kìm được bèn cười cười với Dạ Hoa: “Vừa nãy ta nghe ngươi nói là đến để tìm vợ, bây giờ lại vội vàng chạy đến chỗ của Phượng Cửu, hầy, không phải thấy Phượng Cửu nhà ta yểu điệu thướt tha, nên thầm mến mộ rồi chăng?”.

Hắn nhìn ta một cái, khẽ cười ý nhị, nhưng không đáp lại.

Vốn định chọc cho hắn cười, nào ngờ gặp phải tên đầu sắt, ta cụt hứng, cũng không thèm nói gì nữa.

Ti Mệnh Tinh Quân áo xanh đi đầu cười “phì” một tiếng: “A, hôm nay quân thượng lòng nóng như lửa đốt, gọi tiểu thần từ hội Bàn Đào của Thiên Hậu nương nương về, nói là lúc thay đổi số mệnh của điện hạ Nguyên Trinh có một vị thượng thần không cẩn thận đã làm thay đổi cả số mệnh của Đông Hoa Đế Quân, vì thế Đông Hoa Đế Quân không thể trải qua kiếp số, khi quay trở lại chính thân sợ rằng sẽ nảy sinh hiềm khích với vị thượng thần ấy. Tiểu thần còn chưa được thưởng thức hội Bàn Đào của Thiên Hậu nương nương đã bị kéo xuống phàm trần để đi bổ cứu, chẳng ngờ vị thượng thần đó lại chính là cháu gái Phượng Cửu điện hạ của cô cô. Lúc trước khi tiểu thần gặp Phượng Cửu điện hạ, nàng ấy vẫn còn là một thần nữ, bây giờ đã tu thành thượng thần, thật nhanh quá!”.

Dạ Hoa ho một tiếng.

Ta cười ha ha với Ti Mệnh: “Quá nhanh, quá nhanh”.

Đã đến cửa Hạm Đạm viện, Dạ Hoa đứng bên cạnh ta, khẽ nói: “Ti Mệnh đến bổ cứu số mệnh của Đông Hoa, còn ta nhân tiện đến thăm nàng”. Nói đoạn ẩn đi tiên thân, bước vào cửa lớn của Hạm Đạm viện.

Ta ngẩn người.

Thổ địa rất ngoan ngoãn, làm trọn bổn phận, dẫn chúng ta đến Hạm Đạm viện xong thì cáo từ. Ti Mệnh Tinh Quân bộ dạng cung kính bên cạnh ta, ta cũng ẩn đi tiên thân, cùng Dạ Hoa đi vào trong Hạm Đạm viện. Hôm nay tòa Hạm Đạm viện này đón biết bao thần tiên, một nghìn tám trăm năm sau, nơi này sẽ mãi là phúc địa.

Phượng Cửu đang chong đèn trầm tư, buồn bã khôn xiết, hẳn đang nhớ về mấy câu gào khóc trước mặt đông đủ văn võ bá quan, phi tần lúc ban ngày, cảm thấy rất mất mặt. Nhìn thấy ba thần tiên chúng ta hiện thân trước mặt, thì chẳng chút hoảng hốt, chỉ thản nhiên gọi bên ngoài: “Ngọc Đang, khách đến, dâng trà”.

Ta đưa tay chắn ngang môi nó: “Tiểu tổ tông ơi, mau tỉnh lại đi”.

Phượng Cửu giật mình ngã xuống đất, tỉnh táo lại, nhìn rồi ôm chặt lấy eo ta, nén giọng thổn thức: “Cô cô, ban ngày con mất mặt quá”.

Ta an ủi nó: “May mà lúc ấy con mượn thân xác của Trần quý nhân, người mất mặt chính là Trần quý nhân”. Phượng Cửu vùi đầu trong lòng ta, lắc đầu nguầy nguậy: “Con làm hỏng số mệnh của Đế Quân rồi. Ban nãy con ngẫm kỹ một lượt. Lúc con nhảy từ trên thuyền xuống cứu Đế Quân, con đã nhìn thấy thiếu nữ bị đại bàng cánh vàng hất xuống nước rõ là biết bơi, nếu con không đa sự nhảy xuống, không chừng thiếu nữ đó đã cứu Đế Quân lên, nếu thế hai người họ đều không bị lỡ làng. Con định hôm nay sẽ quay về Thanh Khâu, vị Trần quý nhân mà con mượn thân xác này vốn không được sủng ái, nếu đêm nay nàng ta thăng thiên thì cũng chẳng gây ra chuyện gì lớn. Nhưng lần này con đa sự nên đã cứu Đế Quân, hôm nay trong lúc hôn mê Đế Quân cứ nắm chặt tay con, khi tỉnh lại hai mắt nhìn con chằm chằm, nặng tình đến mức có thể vắt ra nước được”.

Ta ngắt lời: “Có lẽ con nhìn nhầm, hắn bị ngâm trong nước quá lâu, đến mức đôi mắt cũng sũng nước không chừng”.

Phượng Cửu ngẩng đầu, nhìn ta ai oán: “Nhưng chàng còn nói sẽ thăng phẩm cấp cho con”.

Ta im lặng vỗ vỗ vào lưng nó.

Ti Mệnh Tinh Quân bưng chén trà hứng chí bước qua: “Ý của điện hạ là, lần này Đông Hoa Đế Quân đã nảy sinh tình ý với điện hạ?”.

Chắc là lúc này Phượng Cửu mới phát hiện trong phòng còn hai vị thần tiên khác. Ta liếc nhìn Dạ Hoa đang ngồi uống trà bên cạnh, nói với Phượng Cửu: “Đây là Dạ Hoa – thái tử của Thiên Quân trên Cửu Trùng Thiên”.

Chẳng ngờ Phượng Cửu chẳng thèm nể nang Dạ Hoa, hai mắt cứ nhìn chằm chằm vào Ti Mệnh Tinh Quân, nhìn hồi lâu, mới thảm thiết nói: “Ti Mệnh, sao ngài viết số mệnh gì thế này?”.

Ta cảm thấy Phượng Cửu không thèm đoái hoài đến Dạ Hoa thì cũng không hay lắm, bèn cười hối lỗi với Dạ Hoa, hắn cũng cười đáp lại, tiếp tục thong thả uống trà.

Câu “số mệnh gì thế này” ngẫm ra có ý châm biếm Ti Mệnh Tinh Quân. Thí dụ như bạn không thể nói với trạng nguyên là trên người anh không có vết mực nào, bạn không thể nói với hoa khôi của lầu xanh là dung mạo nàng quá tầm thường. Xét cho cùng, một người mà phải chối bỏ cái cần câu cơm, thì tuyệt đối không thể sỉ nhục được.

Ti Mệnh nâng chén trà, khóe môi nhếch lên: “Ban đầu sắp đặt số mệnh của Đế Quân, đúng là sắp đặt còn lỏng lẻo, Đế Quân nay đã nảy sinh tình ý với điện hạ, vậy nên giờ chỉ có thể mời điện hạ chịu thiệt thòi diễn cùng Đế Quân. Lần này Đế Quân đầu thai, trong những kiếp số cần trải nghiệm thì tình kiếp đứng đầu. Tình kiếp của Đế Quân vốn do thiếu nữ rơi xuống nước tạo ra, vì thế, bây giờ chỉ có thể nhờ đến điện hạ”.

Phượng Cửu ấm ức nói: “Tại sao phải do ta tạo? Mối nợ ơn tình ta nợ chàng đã báo đáp, ngươi không nghĩ giúp ta cách thoát thân, mà còn giữ ta lại để giúp chàng tạo kiếp, Ti Mệnh, uổng cho mối giao tình bao năm qua của chúng ta!”.

Ti Mệnh nhàn tản đậy nắp chén trà lại: “Đúng như điện hạ vừa nói, là do điện hạ làm rối loạn số mệnh của Đế Quân, để điện hạ tạo kiếp cho Đế Quân coi như là bồi thường. Nếu điện hạ cố chấp không chịu, đợi đến khi Đế Quân sống hết kiếp này, quay trở lại chính thân, thì đến chịu tội với Đế Quân cũng không muộn”.

Ta không kìm được: “Việc này chẳng liên quan gì tới Tiểu Cửu, là do ta thay đổi số mệnh của Nguyên Trinh mới dẫn đến những chuyện này…”.

Ti Mệnh đứng lên, cung kính nói: “Cô cô không biết đấy thôi, thiên mệnh có lý lẽ này, một vòng mà lại thắt thêm một vòng nữa, cái nhân của vòng bên trên sẽ sinh ra cái quả của vòng phía dưới, điện hạ Phượng Cửu chính là cái nhân bên trên của cái quả Đế Quân. Điện hạ Phượng Cửu đã bị cuốn vào vòng xoáy này, hơn nữa nàng còn dùng lưỡng sinh chú để làm phép, nếu số mệnh của Đế Quân bị thay đổi, điện hạ đương nhiên sẽ bị pháp thuật giáng lại bản thân. Cách mà tiểu thần đề xuất ban nãy chính là cách chu toàn nhất”.

Ta nhìn Phượng Cửu bằng ánh mắt thương cảm vô hạn.

Phượng Cửu âu sầu ngã xuống ghế, âu sầu xoáy cốc trà, âu sầu nhấp một ngụm, rồi từ từ nghiêm túc nói với Ti Mệnh: “Nếu đã để ta tạo kiếp, vậy hãy nói xem ta nên tạo kiếp như thế nào?”.

Nó đã nhận lệnh rồi.

Ti Mệnh Tinh Quân khẽ nói: “Chỉ cần điện hạ ngọt ngào với Đế Quân, chiếm trọn trái tim của Đế Quân, đợi đến khi Đế Quân nặng tình với điện hạ, lúc đó mới giẫm đạp đi giẫm đạp lại trái tim của Đế Quân là được”.

Phượng Cửu ho khụ khụ một cái, ta cũng ho khụ khụ một cái.

Ti Mệnh bổ sung: “Tiểu thần đã chọn cho điện hạ mấy màn kịch, lúc đó sẽ chỉ dẫn cho điện hạ phải làm thế nào, a, làm thế nào để giẫm đạp lên trái tim người ta”.

Phượng Cửu nhoài ra bàn òa khóc.

Lại nghe bên ngoài có tiếng thông báo hoàng đế giá đáo. Ta thương xót xoa xoa đầu Phượng Cửu, cùng Dạ Hoa, Ti Mệnh xuyên tường mà đi.

Hai người họ dẫn thẳng ta đến bên ngoài Tử Trúc Uyển, Dạ Hoa ôm lấy ta, nói: “Ta còn có một số việc phải làm, ngày mai nàng cứ về Thanh Khâu trước, vài ba ngày sau ta sẽ tới”. Nói đoạn quay người đi mất. Vừa nãy Ti Mệnh nói, họ đều chuồn từ hội Bàn Đào, bay giờ phải mau mau trở về.

Ta đứng nguyên tại chỗ một lát, cảm thấy cảm giác phảng phất khi nãy rất quen thuộc, bèn nhẩm tính Dạ Hoa đã ở Thanh Khâu rất lâu, nghe hắn nói những lời này, không giống như sắp đi, vậy rốt cuộc bao giờ hắn sẽ đi? Ngẫm nghĩ một lát, cảm thấy cơn buồn ngủ ập tới bủa vây, ta liền quay mình đi vào phòng ngủ.

Chú thích: 

20. Hận sắt không thành thép: Hồi thứ 96, tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng, Tào Tuyết Cần có viết: “Chỉ vì Bảo Ngọc không tiến bộ, cho nên ta luôn hận anh ta, cũng chẳng qua là “hận sắt không thành thép được mà thôi”. Ý chỉ vì hy vọng ai đó tiến bộ nhưng không thành thì bất mãn, sốt ruột mong người đó giỏi lên (ND).” 

21. Chia tay trong thời gian ngắn ngủi (ND). 

22. Hiên Viên tức Hoàng Đế, họ Cơ, một trong ngũ đế, vì sống ở núi Hiên Viên nên được gọi là Hiên Viên. Ông ra đời, dựng nghiệp và định đô ở Hữu Hùng (nay thuộc Tân Trịnh, Hà Nam), vì thế mà được gọi là Hữu Hùng Thị, vì có tên thụy là Thổ Đức, nên được gọi là Hoàng Đế. Từng đánh thắng Viêm đế ở Phản Tuyền, thắng Xí Vưu ở Trác Lộc nên được các chư hầu tôn làm thiên tử, người đời sau tôn là ông tổ của dân tộc Trung Hoa. Ông có công đánh giặc dẹp phản, bình định thiên hạ, thống nhất bộ tộc, chế ra lễ nhac, giáo hóa cho dân chúng, giúp dân an cư lạc nghiệp (ND). 
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện